Phật Hoàng Trần Nhân Tông Và Thiền Phái Trúc Lâm

z6349784419795 533fc4a24cfc1119e1adbd65ad83c94a

PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG & THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

Buddha Emperor Tran Nhan Tong and Truc Lam Zen Sect

Đầu thế kỷ 14, Phật hoàng Trần Nhân Tông và Tổ Pháp Loa đã mở mang xây dựng nhiều chùa chiền ở miền Tây Yên Tử: Sơn Tháp, Mã Yên (Cẩm Lý), Bát Nhã (Huyền Sơn), Hồ Bấc (Nghĩa Phương), Đám Trì (Lục Sơn), Khám Lạng (Khám Lạng), Nhạn Tháp (Tiên Nha) thuộc huyện Lục Nam ngày nay.

In the early 14th century, Budda Emperor Tran Nhan Tong and Patriarch Phap Loa built many pagodas in Tay Yen Tu area, namely Son Thap, Ma Yen (Cam Ly), Bat Nha (Huyen Son), Ho Bac (Nghia Phuong), Dam Tri (Luc Son), Kham Lang (Kham Lang), Nhan Thap (Tien Nha). These pagodas are currently located in Luc Nam district.

Phật phái Trúc Lâm hưng thịnh được gần 50 năm thì suy vi, thậm chí trước khi Thiền sư Huyền Quang viên tịch đã không còn giữ được ngôi vị Quốc đạo do có sự ảnh hưởng của tầng lớp trí thức Nho giáo trong triều đình. Sự kiện đức vua Trần Anh Tông chưa thực sự tin tưởng tâm thiền của Huyền Quang nên đã phái nàng Điểm Bích đi thử lòng Huyền Quang đã báo hiệu sự mất vị thế của đạo Phật thuở ấy.

The Truc Lam Buddhism flourished for nearly 50 years before declining. Even before Zen Master Huyen Quang passed away, he could no longer maintain its position as the national religion due to the influence of the Confucian intellectual class in the royal court. Because King Tran Anh Tong did not truly trust Huyen Quang’s zen mind, he sent Diem Bich to test Huyen Quang’s mind, which signaled the loss of Buddhism’s position at that time.

Sự ra đời của ngôi chùa/am ở hang Canh Tràm (xã Tân Liễu) mà truyền thuyết cho rằng đó là nơi nàng Điểm Bích khởi dựng thờ Phật để chuộc lại “nỗi oan thiền sư”…từ những năm giữa thế kỷ 14. Chùa mới dựng lên khang trang, tố hảo đã quy tụ được nhiều danh tăng, Hòa thượng của Thiền phái Trúc Lâm về cư trú… Sự kiện này đã khắc ghi một dấu mốc quan trọng về sự hưng thịnh chợt lóe lên như một đốm sáng trước khi tiếp tục suy vong của Thiền phái Trúc Lâm cũng như Phật giáo Đại Việt từ những năm đầu thế kỷ 15 bởi sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo lấn át rồi giành ngôi vị độc tôn …

The birth of the pagoda/hermitage in Canh Tram cave (Tan Lieu commune), where legend has it that it was the place where Diem Bich started to worship Buddha to atone for the “injustice of the Zen master”… from the mid-14th century. The newly built pagoda was spacious and beautiful, attracting many famous monks of the Truc Lam Zen sect… This marked an important milestone of the sudden prosperity like a bright spot before the continued decline of the Truc Lam Zen sect as well as Dai Viet Buddhism in the early 15th century due to the strong influence of Confucianism which then took the unique position.

Thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, Phật giáo Trúc Lâm nhiều lần phục hưng phát triển, đặc biệt dầu thế kỷ 20, Hòa thượng trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm là Thích Thanh Hanh được tôn bậc Thiền gia pháp chủ, có công đầu trong việc chấn hưng Phật pháp ở xứ Bắc kỳ. Đầu thế kỷ 21, chùa Vĩnh Nghiêm vẫn giữ vai trò chốn tổ. Từ Vĩnh Nghiêm, di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm luôn tỏ rạng, lan tỏa không chỉ trong nước mà vươn tới toàn cầu. Từ di sản Phật giáo Trúc Lâm, một quần thể các điểm du lịch văn hóa sinh thái đã hình thành và phát triển ở khu vực sườn Tây Yên Tử.

From the 17th century to the 20th century, Truc Lam Buddhism was revived and developed many times, especially in the early 20th century, the master of Vinh Nghiem Pagoda, Thich Thanh Hanh, was promoted to be a Zen Patriarch and pioneered the revival of Buddhism in the Northern region. At the beginning of the 21st century, Vinh Nghiem Pagoda still played the role as the ancestral pagoda. From Vinh Nghiem, the cultural heritage of Truc Lam Buddhism has always been shining, spreading not only domestically but also globally. From Truc Lam Buddhist heritage, a complex of eco-cultural tourism destinations has been established and developed in the west of Yen Tu mount.

Phật hoàng là người mở mang chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Người là đại diện cho lòng từ bi bác ái … Tên tuổi của vị vua anh minh Trần Nhân Tông đã được đặt tên cho một viện nghiên cứu đặt tại thành phố Boston, Hoa Kỳ. Viện dược thành lập do một nhóm nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Harvard, một trong những cái nôi của trí tuệ nước Mỹ và do Giáo sư Thomas Patterson làm chủ tịch. Viện này đã tổ chức giải thưởng quốc tế mang tên Trần Anh Tông về hòa giải và yêu thương hằng năm.

The Budda Emperor Tran Nhan Tong was the one who developed ancestral Vinh Nghiem pagoda. He represents compassion and charity… The name of this smart king is used for a research institute located in Boston, USA. This institute was founded by a group of researchers at Harvard University, one of the US cradles of wisdom and chaired by Professor Thomas Patterson. The institute has organized an annual international award named Tran Anh Tong on reconciliation and love.

CÁC SƯ TỔ KẾ TRUYỀN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ ĐƯỢC THỜ Ở CHÙA VĨNH NGHIÊM

The MASTERs worshiped at Vinh Nghiem Pagoda

THIỀN SƯ LINH KHÔNG

Tên húy là Vũ Văn Thông, hiệu là Huệ Hải. Tổ tu hành và trụ trì Chốn tổ Vĩnh Nghiêm những năm cuối thế kỷ 16, dầu thế kỷ 17. Tổ được thăng chức Ty tăng thống tăng lục, là người hưng công trùng tu tòa Thượng diện, thiếu hương và các Hành lang cùng Tiến dường, Hậu đường chốn tổ Vĩnh Nghiêm.

ZEN MASTER LINH KHONG

His birth name was Vu Van Thong, his given name when he grew up was Hue Hai. He practiced and led Vinh Nghiem pagoda in the late 16th and early 17th centuries. He was promoted to the position of Supreme Patriarch Tang Luc, who made a great contribution in restoring Thuong Dien house, Thieu Huong house, corridors, front house and back house in Vinh Nghiem ancestral pagoda.

TÌ KHIẾU THÍCH HẢI HÀI

Tổ trụ trì chốn tổ từ năm Minh Mệnh thứ 10 (1830). Tổ có công tập hợp ba thôn, mộ các thiện tín đúc được một quả chuông lớn, lại trùng tu gác chuông, tân tạo trai dường 11 gian.

BHIKKHU THICH HAI HAI

The Patriarch was in charge of this pagoda in the 10th year of Minh Menh reign (1830). The Patriarch made a big contribution in gathering three villages and mobilizing Buddhists to cast a large bell, restore the bell tower, and creating an 11-room dining hall.

THÍCH THANH TUYÊN

Tổ trụ trì chốn tổ được vài năm, do ít tuổi, không dủ kinh nghiệm gánh vác trọng trách nên có lời với dân và từ biệt chốn tổ tu hành nơi khác.

MONK THICH THANH TUYEN

The Patriarch led the pagoda for a few years. Because he was young and not experienced enough to take this responsibility, he said goodbye to the local people and left to another place.

THIỀN SƯ TỈNH THÀNH

Không rõ tên húy, năm sinh năm mất và sự nghiệp tu hành. Tổ trụ trì chốn tổ Vĩnh Nghiêm những năm dấu thế kỷ 18. Năm Mậu tuất 1718, tổ hưng công các món đồ và Phật tử xây dựng gác chuông và dúc một quả chuông đồng.

ZEN MASTER TINH THANH

His birth name, year of birth and death, and career are unknown. The Patriarch led Vinh Nghiem pagoda in the early 18th century. In the Year of the Dog, 1718, the Patriarch and Buddhists built a bell tower and cast a bronze bell.

NHÀ SƯ TỊNH PHƯƠNG

Pháp hiệu Tâm Viên, người huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh năm Kỷ mão (1819), trụ trì chốn tổ từ năm Tự Đức thứ 2 (1849). Tổ có công mở rộng đạo pháp dạy môn dồ, tân tạo ba tòa: Côn lư xá na – Di dà tiếp dẫn – Phật Thế tôn thuyết pháp; ba tòa văn Phù- Phổ Hiền – Địa Tạng bồ tát; hai tòa A nan Ca diếp; Thích văn, một tòa Phạn Vương thiên; hai tòa Khải giáo – Chân Tế. Sư quy tịch năm Thành Thái nguyên niên (1889).

MONK TINH PHUONG

His Dharma name is Tam Vien. He was from La Son district, Duc Tho district, Ha Tinh province. The Patriarch was born in the year of the cat (1819), and became the abbot of the pagoda in the second year of Tu Duc reign (1849). The Patriarch had the merits of expanding the Dharma to teach the disciples, building three new towers of Lo-ca-na-buddha, Amitabha Buddha and Buddha preaching the Dharma; three new towers of
Manjushri Bodhisattva, Samantabhadra Bodhisattva, and Ksitigarbha Bodhisattva; 2 towers of Anada Ca-Diep and Thich Van; 2 buildings named Khai Giao and Chan Te. The monk passed away in Thanh Thai year (1889).

THIỀN GIA PHÁP CHỦ HÒA THƯỢNG

MONK ZEN PATRIARCH Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh (1840-1936). Năm 60 tuổi, Ngài được giao trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Năm 1935, khi đã ngoài 90 tuổi, ngài dứng ra thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và được vinh phong ngôi Thiền gia Pháp chủ (đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam). Từ năm 1932 – 1935, Hòa thượng Thích Thanh Hanh tổ chức khắc mộc bản và ấn hành rộng rãi nhiều kinh sách, trong đó có sách Thiền tông bản hạnh (1932) và Đại thừa chỉ quán (1935).Zen Patriarch Thich Thanh Hanh (1840-1936) was assigned to preside over Vinh Nghiem Pagoda when he was 60 years old. In 1935, when he was over 90 years old, he founded the Viet Nam Buddhist Sangha and was honored as Zen Master (head of the Viet Nam Buddhist Sangha). Between 1932 and 1935, Venerable Thich Thanh Hanh organized woodblock carving and widely published many sutras, including Thien Tong Ban Hanh (1932) and Dai Thua Chi Quan (1935).

HÒA THƯỢNG THÍCH TÂM DUYỆT

MONK THICH TAM DUYET

Hòa thượng sinh ra trong gia đình sùng tín đạo Phật ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, năm 12 tuổi (1901) xuất gia làm đệ tử sư cụ Văn Hán chùa Văn Than (Bắc Ninh). Năm 1958, Hòa thượng được bầu vào Ban trị sự Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam.

The monk was born in a devout Buddhist family in Yen Mo district, Ninh Binh province. At the age of 12 (1901), he became a monk and then a disciple of monk Van Han at Van Than pagoda (Bac Ninh). In 1958, he was elected to the Central Executive Committee of the Viet Nam Buddhist Sangha.

Tại chùa Vĩnh Nghiêm, tổ đã trồng được vườn cây với hàng nghìn cây ăn quả gồm nhãn, vải, mít…quanh năm xanh tốt làm đẹp thêm cho cảnh quan chốn tổ. Đặc biệt, tổ là người có công đầu cùng nhân dân địa phương giữ gìn khối di sản mộc bản và nhiều hiện vật, tài liệu liệu Hán Nôm cổ do các tổ chùa để lại. Tháng 5 năm 2012, Di sản Mộc bản chốn tổ Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO vinh danh là Di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á- Thái Bình Dương.

He planted in the garden with thousands of fruit trees, including longan, lychee, jackfruit… The garden is green all year round, contributing to the beauty of Vinh Nghiem pagoda landscape. In particular, he pioneered to work with the local people in preserving the woodblock heritage, many artifacts and ancient Han Nom documents as legacy of the previous abbots of the pagoda. In May 2012, the Woodblock Heritage of Vinh Nghiem Pagoda was honored by UNESCO as a Documentary Heritage of the Memory of the World (MoW) Program in the Asia-Pacific region.

TỪ KHIẾU NI VŨ THỊ LƯƠNG

Bhikkhuni Vu Thi Luong

Không rõ tên hủy, năm sinh năm mất và sự nghiệp tu hành. Có lẽ tổ là người kế truyền tố Tỉnh Thành vào những năm giữa thế kỷ 18. Văn bia chốn tổ Vĩnh Nghiêm khắc ghi vào năm Cảnh hưng thứ 10 (1749), sau cơn tao loạn, tổ đã trùng tu gác chuông, làm mới hai bên hành lang phía sau và đúc một quả chuông lớn.

There are no documents clearly stating her birth name, year of birth, year of death and her religious career. It is assumed that she was the successor of master Tinh Thanh in the mid-18th century. The writing carved on the stele of Vinh Nghiem pagoda in the 10th year of Canh Hung reign (1749) reveals that she restored the bell tower, after the chaos, renewed the two corridors behind the main hall and cast a large bell.

THÍCH THANH QUỲNH

Monk Thich Thanh Quynh

Tổ sinh năm Canh tuất người xã Cự Lâm, xã Thư Trì, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Tổ kể truyền trụ trì chốn tổ khi sư Thanh Tuyên từ biệt di nơi khác. Tổ có công sắm dối 8 cây gỗ lim cứng, bốn mươi tảng đá kê cột, trang hoàng thập điện, dáp tổ tạo tượng, thay sà ngang, dui mè Trai đường… Sau khi tổ quy tịch (1907), nhân dân dã thỉnh tổ Thanh Hanh về trụ trì.

He was born in the year of the Dog in Cu Lam village, Thu Tri commune, Kien Xuong district, Thai Binh province. He was the abbot of the pagoda after monk Thanh Tuyen left. He was the one who reformed the dining hall: 8 hard ironwood pillars, 40 stones to support the pillars, ten Yama courts, statues, crossbeams and rafters… After he passed away (1907), the local people invited monk Thanh Hanh to chair the pagoda.

HÒA THƯỢNG TRẦN NHƯ

MONK TRAN NHU

Tổ họ Trần, pháp hiệu Maha0 tỳkhiêu bổ tát giới Thanh Như, thế hệ thứ hai ở chốn tổ Vĩnh Nghiêm, có tượng ở tòa Tổ đệ nhị, còn gọi là tượng cụ Bạch Mi. Hiện chưa rõ quê hương bản quán, thời gian tại hạ. Ngoái chốn tổ Vĩnh Nghiêm, tổ còn có công mở mang xây dựng các chùa khác như: Chùa Văn Giàng, chùa Bình Đăng (xã Tân Tiến, huyện Yên Dũng), chùa Đống Nghiêm (xã Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang) … Tổ có vị trí rất trang trọng trong nhà Tổ đệ nhị của chốn tổ Vĩnh Nghiêm.

His family name is Tran, his dharma title is Maha, and he is a monk of the Thanh Nhu order. He is the second generation in the Vinh Nghiem ancestral pagoda. His statue, also called the Bach Mi statue, is placed at the second Patriarch worshipping house. Information about his hometown and age remains unknown. In addition to Vinh Nghiem pagoda, he also contributed to the construction of other pagodas such as: Van Giang pagoda, Binh Dang pagoda (Tan Tien commune, Yen Dung district), Dong Nghiem pagoda (Dinh Ke commune, Bac Giang city)… His statue is placed in a very solemn position in the second Patriarch worshipping house of Vinh Nghiem pagoda.

KIM GIA LĂNG

Monk Kim Gia Lang

Kim Gia Lăng còn gọi là sư ông Thích Thanh Kim, không rõ hành trạng của tổ nhưng có tượng thờ ở vị trí thứ ba nhà Tổ đệ nhị. Có thầy truyền lại rằng tổ Thích Thanh Kim là tổ kế truyền tổ Thích Thanh Hanh và là người nuôi dưỡng tổ Thích Tâm Duyệt.

Kim Gia Lang is also known as Master Thich Thanh Kim. His life and career are not documented, but he has a statue in the third row of the second Patriarch worshipping house. Some monks told that Master Thich Thanh Kim was the successor of Master Thich Thanh Hanh and was the one who nurtured Master Thich Tam Duyet.

Ngoài các tổ được trình bày ở phần trên, ở tòa Tổ đệ nhị chốn tổ còn có tượng thờ/bài vị thờ tổ là Hòa thượng Trần Như và tổ Thích Thanh Kim

In addition to the above said masters, statues/tablets of Venerable Tran Nhu and master Thich Thanh Kim.

MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM

WOODBLOCKS OF VINH NGHIEM PAGODA

Kho mộc bản có tổng số 3050 ván rời, thuộc 8 đầu sách (trong đó có vài chục mảnh là mộc bản sớ, điệp và lịch pháp xem ngày giờ tốt xấu trong năm), được chế tác nhiều đợt trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, số rất ít được khắc ở thế kỷ 17, 18 nhưng hiện tại mộc bản được khắc in trước thế kỷ 19chỉ còn vài bản lẻ…

The woodblock warehouse is preserving totally 3,050 separate boards today, belonging to 8 books (including dozens of pieces of woodblocks of inscriptions, edicts and calendars to see good and bad days and hours of the year). These boards were carved in many batches from the late 19th century to the early 20th century, and a very small number of the boards carved in the 17th and 18th centuries. However, only some woodblocks carved and printed before the 19th century remain now…

Người trực tiếp chế tác mộc bản là những người thợ thủ công thuộc các phường thợ chuyên làm nghề khắc mộc bản ở tỉnh Hải Dương. Họ được các vị sư trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm mời đến làm công lâu dài trong chùa, trực tiếp thực hiện các các công đoạn chế tác mộc bản (chọn gỗ, xử lý gỗ, khắc chữ, khắc trang trí), in ra sách, đóng sách. Phía nhà chùa đứng ra hưng công quyên tiền và giữ vai trò tổ chức và giám sát công việc. Trên mộc bản còn lưu họ tên một số người thợ cả, trong đó, tiêu biểu là người thợ khắc Nguyễn Nhân Minh và Phó Nền là người trực tiếp san khắc mộc bản những năm 1932 đến 1935. Đây là bộ mộc bản gốc, duy nhất của Phật phái Trúc Lâm hiện còn lưu giữ được tại chùa Vĩnh Nghiêm để truyền bá tư tưởng cốt lõi của đạo Phật cho hàng trăm ngôi chùa với hàng triệu tăng ni, phật tử xưa nay, đồng thời góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tạo dựng tinh thần vui sống hòa bình, lạc quan, tự tin vào chính bản thân mình ở mỗi con người.

The people who directly made the woodblocks were craftsmen from woodblock carving guilds in Hai Duong province. They were invited by the masters of Vinh Nghiem pagoda to work long-term in the pagoda, directly conducting the whole woodblock carving process (selecting wood, processing wood, carving letters, carving decorations), printing and binding books. The pagoda was responsible for raising money, organizing and supervising the work. The names of some master craftsmen are still recorded on the woodblocks, typically carvers Nguyen Nhan Minh and Pho Nen who directly carved the woodblocks between 1932 and 1935. The set of woodblocks made by these two men is the only original set of woodblocks of the Truc Lam Buddhist sect that is still preserved at Vinh Nghiem pagoda to inspire the core ideology of Buddhism to hundreds of pagodas with millions of monks, nuns and Buddhists to date. At the same time, it contributes to nurturing the soul, creating the spirit of joy, peace, optimism and self-confidence in each person.

Việc san khắc mộc bản rồi ấn hành ở chùa Vĩnh Nghiêm là một bước ngoặt quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình chấn hưng Phật phái Trúc Lâm cũng như đời sống Phật giáo Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là ván in của 8 đầu sách, trong đó có cả nội điển và ngoại điển. Nội điển có kinh Adi đà, Kinh Hoa nghiêm; Luật: Sa di ni giới, Tỳ khưu ni giới; Truyện có quyển Tây phương mỹ nhân truyện; Thơ, văn: Thiền tông bản hạnh. Ngoại điển là bộ Kính tín lục với nhiều nội dung khuyến thiện có giá trị đặc sắc để răn dạy con người năng làm việc thiện cho đời.

The woodblock carving and publication at Vinh Nghiem Pagoda was an important turning point, contributing to the revival of Truc Lam Buddhism as well as the Buddhist life in Vietnam in the late 19th and early 20th centuries. The woodblocks of Vinh Nghiem Pagoda are the printing blocks of 8 books, including both internal and external scriptures. Internal scriptures include the Amitabha Sutra, the Avatamsaka Sutra; Laws namely “The novice nuns’ precepts”, “the bhikkhuni precepts”; Stories namely “The Tale of the Western Beauties”; Poetry and literature works namely “Thien Tong Ban Hanh”. Non-Buddism works include the Kinh Tin Luc (Religious Faith Record) with many kindness-oriented and unique values to teach people to do good things for life.

VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ

AND TRUC LAM YEN TU ZEN SECT

Ngay từ khi mới sáng lập (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14) Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông đã cho biên tập, san khắc, in ấn hành một số kinh/sách/ trước tác quan trọng để phổ biến giáo lý, tư tưởng hành đạo của nhà Phật nói chung và các vị cao tăng Phật phái Trúc Lâm nói riêng. Tuy nhiên, do chính sách “hoại thư” của giặc Minh (đầu thế kỷ 15), các mộc bản san khắc thời kỳ này đã bị mai một.

Right from its founding (in late 13th century, early 14th century), Truc Lam Yen Tu Zen sect of Tran Nhan Tong had a number of important sutras/books/writings compiled, carved, printed and published to disseminate the teachings and thoughts of Buddhism in general and monks of Truc Lam Buddhist sect in particular. However, due to the “gangrene” policy of the Ming invaders (in early 15th century), the woodblocks craved during this period have been lost.

Thế kỷ 17, với sự chấn hưng của Phật phái Trúc Lâm, việc ấn loát kinh sách trở thành vấn đề bức thiết trong nhà chùa thì Vĩnh Nghiêm lại được các sư tổ quan tâm thực hiện. Thế nhưng, những cuộc nội chiến tương tàn, cùng với khí hậu khắc nghiệt, nóng ẩm, mưa nhiều, lụt lội liên miên làm cho mộc bản san khắc thời kỳ này bị hủy hoại, thất tán. Cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, chùa Vĩnh Nghiêm lại được tái hiện thành một trung tâm ấn hành, xuất bản lớn của Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo Trúc Lâm nói riêng. Bộ mộc bản còn lưu giữ hiện nay cơ bản được san khắc ở thời kỳ này.

In the 17th century, with the revival of Truc Lam Buddhism, the printing of Buddhist scriptures became an urgent issue in pagodas, and, therefore, was paid special attention by the monks at Vinh Nghiem Pagoda. However, brutal civil wars and severe climate with hot and humid weather, heavy rain and continuous floods resulted in damage or loss of the woodblocks carved during this period. In the late 19th and early 20th centuries, Vinh Nghiem Pagoda re-emerged as a major printing and publishing center for Vietnamese Buddhism in general and Truc Lam Buddhism in particular. The woodblocks being preserved here today were basically carved during this period.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu bằng chữ Hán và chữ Nôm, khắc nội dung một số bộ kinh, sách, luật giới nhà Phật và một số trước tác của danh nhân, thiền sư như: Phật hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa Đồng Kiên Cương, Huyền Quang Lý Đạo Tái, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Chân Nguyên thiền sư (Tuệ Đăng), Bạch Liên tiễn sĩ …

The woodblocks of Vinh Nghiem Pagoda are a documentary heritage written in Han and Nom characters, carved with the contents of several Buddhist scriptures, books, precepts, and quotes from famous people and Zen masters such as: Buddha Emperor Tran Nhan Tong, Phap Loa Dong Kien Cuong, Huyen Quang Ly Dao Tai, first doctoral candidate Mac Dinh Chi, Zen master Chan Nguyen (Tue Dang), Doctor Bach Lien…

YÊN TỬ SƠN – TRẦN TRIỀU – THIỀN TÔNG BẢN HẠNH

YEN TU MOUNTAIN – TRAN DYNASTY – THIEN TONG BAN HANH

Thiền Tông bản hạnh (Bản kể hạnh về phái Thiền Tông). Bản khác chữ Nôm, có 14 ván in với 42 mặt/ (tờ đôi) sách. Tên đầy đủ là Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh. Thiền tông bản hạnh là sách Nôm được sưu tầm và biên soạn vào thời Lê gồm 08 tác phẩm là: Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Phật hoàng Trần Nhân Tông; Hoa Yên tự phú của Thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái; Giáo tử phú của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi; Thiền tông bản hạnh (Chân Nguyên Thiền sư) Du Yên Tử sơn nhật trình, Thiếu thất phú, Thiền tịch phú của Bạch Liên tiểu sĩ.

Thien Tong Ban Hanh (The story of Thien Tong sect). This version is carved in Nom characters, consisting of 14 printing boards with 42 sides/(double sheets). Its full name is Yen Tu Son Truc Lam Tran Trieu Thien Tong Ban Hanh. Thien Tong Ban Hanh is a Nom character book collected and compiled during the Le Dynasty, including 08 works: Cu Tran Lac Dao Phu, Dac Thu Lam Tuyen Thanh Dao Ca by Buddha King Tran Nhan Tong; Hoa Yen Tu Phu by Zen Master Huyen Quang Ly Dao Tai; Giao Tu Phu by First doctoral candidate Mac Dinh Chi; Thien Tong Ban Hanh (Zen Master Chan Nguyen), Du Yen Tu Son Nhat Trinh, Thieu That Phu and Thien Tich Phu (Bach Lien).

Nội dung các tác phẩm đều liên quan đến thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong đó: Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông, Hoa Yên tự phú của Thiền sư Huyền Quang, Giáo tử phú của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi là những tác phẩm văn học Nôm xuất sắc thời Trần; Thiền tông bản hạnh của thiền sư Chân Nguyên là một bài hạnh viết theo thể thơ lục bát kể về sự tích của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và 3 tác phẩm Du Yên Tử sơn nhật trình, Thiếu thất phú, Thiền tịch phú của nhà sư Bạch Liên cũng là những tác phẩm văn học Nôm tiêu biểu thời Lê Trung Hưng. Mộc bản bộ sách này là những tư liệu rất quý, có giá trị đặc biệt còn lưu lại những chứng tích có giá trị về chữ Nôm, văn Nôm thời Trần và thời Lê. Hiện nay, mẫu chữ Nôm từ sách Thiền tông bản hạnh của mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm được Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (The Vietnamese Nôm Preservation Foundation, USA) lấy làm mẫu cho font chữ Nôm trên mã Unicode (kí hiệu NomNaTongLight.ttf) và được cài đặt vào máy tính trên toàn thế giới.

The content of the works are all related to the Truc Lam Yen Tu Zen sect. Among them, Cu Tran Lac Dao Phu, Dac Thu Lam Tuyen Thanh Dao Ca by Buddha Emperor Tran Nhan Tong, Hoa Yen Tu Phu by Zen master Huyen Quang, Giao Tu Phu by First doctoral candidate Mac Dinh Chi are excellent Nom literary works of the Tran dynasty; Thien Tong Ban Hanh by Zen master Chan Nguyen is written in six-eight poetry telling the history of the Truc Lam Yen Tu Zen sect; and the three works namely Du Yen Tu son nhat trinh, Thieu that phu, Thien tich phu by monk Bach Lien are also typical Nom literary works of the Le Trung Hung period. The woodblocks of this book are very precious documents with special values, preserving valuable evidence of Nom characters and Nom literature of the Tran and Le dynasties. Today, the Nom characters on the woodblocks of “Thien Tong Ban Hanh” book at Vinh Nghiem Pagoda are used by the Vietnamese Nôm Preservation Foundation, USA, as the Nom font on Unicode code (NomNaTongLight.ttf version) and installed on computers worldwide.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được khắc bằng chữ Hán và chữ Nôm với nhiều kiểu chữ khác nhau như chân thư, thảo thư, lệ thư, hành thư…, chữ khắc đẹp xứng đáng là những tác phẩm thư pháp … Nhiều trang được các nghệ nhân xưa khắc đan xen thêm những bức minh hoạ đường nét tài hoa tinh tế, bố cục chặt chẽ hài hoà xứng đáng là tác phẩm đồ họa có giá trị thẩm mỹ cao.

The woodblocks of Vinh Nghiem Pagoda are carved in Han and Nom characters with many different styles of writing such as regular script, cursive script, clerical script, running script… and beautiful carved characters, worthy of calligraphy works… In many pages, ancient artisans also carved illustrations with delicate and talent lines, the layout is condense and harmonious, and, therefore, they worthy of graphic works with high aesthetic values.

Kinh, sách được in ra từ kho Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là tư liệu của Thiền phái Trúc Lâm. Tư tưởng, giáo lý hành đạo của Thiền phái Trúc Lâm đã thấm nhuần sâu sắc và ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, tại Việt Nam có hàng nghìn ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Trên thế giới, thiền viện mang đặc trưng tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm cũng phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng đến phật tử ở các nước sở tại. Phật tử và nhà tu hành không chỉ là người Việt ở hải ngoại mà còn thu hút đông đảo tăng, ni, phật tử là người các nước sở tại.

Sutras and books printed from the Vinh Nghiem Pagoda Woodblock Repertoire are documents of the Truc Lam Zen sect. The ideology and teachings of the Truc Lam Zen sect have deeply inspired and spread widely outside Viet Nam’s territory. Currently, Viet Nam has thousands of temples under the Truc Lam Zen sect. Zen monasteries with the ideological characteristics of the Truc Lam Zen sect have also developed vigorously and had a profound influence on Buddhists in many countries around the world. These Buddhists and monks are not only overseas Vietnamese but also monks, nuns and Buddhists in such countries.

Tư tưởng, giáo lý hành đạo của Thiền phái Trúc Lâm đã thấm nhuần sâu sắc và ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể, hiện nay tại Việt Nam có hàng nghìn ngôi chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm, trong đó có hàng trăm thiền viện lớn gắn với tên/ tự danh Thiền phái Trúc Lâm và sơn môn tổ đình Vĩnh Nghiêm.

The ideology and teachings of the Truc Lam Zen sect have also profoundly inspired people outside Viet Nam. Specifically, Viet Nam has thousands of pagodas belonging to the Truc Lam Zen sect, including hundreds of large monasteries whose names are associated with the Truc Lam Zen sect and ancestral Vinh Nghiem.

Ngày nay, Phật giáo Việt Nam đã hòa nhập cùng Phật giáo thế giới và cũng như Phật giáo ở các nước khác có sự dung hòa các tông phái khác để hội nhập, phát triển, hòa bình. Trong bối cảnh hội nhập chung của đất nước, Phật giáo Việt Nam đã góp phần củng cố tình đoàn kết, ổn định và hòa bình trong khu vực và thế giới.

Vietnamese Buddhism today has integrated with Buddhism of the world and, as the Buddism in other countries, has been harmonized with other sects for integration,  development and peace. In the context of the country’s overall integration, the Vietnamese Buddhism has contributed to strengthening the solidarity, stability and peace in the region and the world.

Những tác phẩm văn học của các Thiền sư Việt Nam thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Việt Nam nói chung mang đậm tư tưởng hướng thiện của đạo Phật đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Thiền tông thế giới, mà những tác phẩm còn tồn tại trên ván khắc chùa Vĩnh Nghiêm là những đóng góp đáng trân trọng.

The literary works of Vietnamese Zen masters of the Truc Lam Zen sect in particular and Viet Nam in general are imbued with the good inclination of mind in Buddism, and have contributed to enriching the world’s Zen literature, and the works preserved on the woodblocks of Vinh Nghiem Pagoda are respected contributions.

Với tất cả những giá trị đặc sắc ấy, năm 2011, được sự đồng ý của Thủ tướng chính phủ, UBND tỉnh Bắc Giang phối hợp với Uỷ ban UNESCO Việt Nam xây dựng hồ sơ khoa học đệ trình Uỷ ban UNESCO thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tháng 5 năm 2012 tại kỳ họp thứ 5, di sản Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam chính thức được vinh danh là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

With all these unique values, in 2011, as directed by the Prime Minister, the People’s Committee of Bac Giang province coordinated with the UNESCO Committee of Viet Nam to prepare a scientific dossier to submit to the World UNESCO Committee for Asia – Pacific. In May 2012, at the 5th session of the Committee, the Woodblock Heritage of Vinh Nghiem Pagoda in Yen Dung District, Bac Giang Province was officially honored as a Documentary Heritage under the Memory of the World Program for Asia – Pacific region.

MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIỆM – DI SẢN VĂN HÓA NHÂN LOẠI

WOODBLOCKS OF VINH NGHIEM PAGODA – CULTURAL HERITAGE OF THE HUMAN

CHÙA VĨNH NGHIỆM LÀ NƠI KHẮC, IN ẤN KINH, SÁCH GIÁO LÝ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM TẠI CHÙA VĨNH NGHIỆM TỪ THẾ KỈ XIII ĐƯỢC GHI RÕ TRONG SÁCH CHÍNH SỬ VIỆT NAM. MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIỆM LÀ CỔ VẬT NGUYÊN GỐC, ĐỘC BẢN VÀ LÀ TƯ LIỆU GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU NHIỀU LĨNH VỰC NHƯ: TÔN GIÁO, NGÔN NGỮ, VĂN HỌC, Y HỌC, MỸ HỌC.

VINH NGHIEM PAGODA IS THE PLACE WHERE SUTRAS AND DOCTRINAL BOOKS OF TRUC LAM ZEN SECT WERE CARVED AND PRINTED. THESE SUTRAS AND DOCTRINAL BOOKS WERE DOCUMENTED IN THE OFFICIAL VIETNAMESE HISTORY SINCE THE 13TH CENTURY. ITS WOODBLOCKS ARE ORIGINAL AND UNIQUE ANTIQUES. THESE ARE IMPORTANT DOCUMENTS FOR RESEARCH IN MANY FIELDS SUCH AS RELIGION, LANGUAGE, LITERATURE, MEDICINE AND AESTHETICS.

VỀ TÔN GIÁO

About Regilion

Thiền phái Trúc Lâm do Trần Nhân Tông vị Hoàng di di ta sáng lập là Phật phải riêng biệt đầu tiên của Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc Phật giáo của An Do và Trung Quốc, vừa phù hợp với đặc trưng của văn hóa Việt Nam vừa khẳng định được bản lĩnh tự chủ trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài.

The Truc Lam Zen sect was founded by Buddhist Emperor Tran Nhan Tong. This is the first separate Buddhist sect in Viet Nam based on the selective absorption of Buddhism from India and China. It matches the characteristics of Vietnamese culture and affirms the ownership in absorbing the quintessence of foreign culture.

Khác với các giáo phái khác dựa vào thế lực siêu nhiên bên ngoài, Thiên phái Trúc Lâm là phương cách tu hành tư bản thân, sóng thuận theo qui luật của tạo hóa, lạc quan trước mọi hoàn cảnh, đưa tư tưởng Phật giáo nhập thế thâm nhập sâu vào dân gian Việt Nam bao đời nay và ngày nay. tiếp tục phát triển, phổ biến rộng rãi ở nước ngoài.

Unlike other sects that rely on external supernatural forces, Truc Lam Zen focuses on self-reliance, laws of creation and optimism in all circumstances. The Zen sect has disseminated “the engaged Buddhism” widely in the Vietnamese society for generations, and is still continuing to develop and spread widely overseas.

VỀ NGÔN NGỮ

About Language

Một số mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được khác bằng chữ Nôm, là loại văn tự của riêng người Việt Nam ra đời từ thế kỷ XII, khác biệt các loại văn tự khác trên thế giới. Dây cung là bước ngoặt đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam, được sử dụng một cách có hệ thống trong trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông và các cao tăng Thiên phải Trúc Lâm cũng như các tri thức dương thời. Họ sử dụng chữ Nôm dễ viết lox thuyết pháp dưới dạng văn ván (tiện cho việc phổ biến giáo lí nhà Phật vào dân gian), Những lời thuyết pháp được viết bằng chữ Nôm là những tổng kết ngắn gọn dưới dạng thơ hoặc là những diễn giải tư tưởng Phật học dưới làng kinh của người Việt Nam.

Some woodblocks of Vinh Nghiem pagoda were written in Nom characters, a unique language of the Vietnamese people, created in the 12th century, different from other languages in the world. The systematic use of Nom characters in the works by Budda Emperor Tran Nhan Tong, the eminent monks of Truc Lam Zen and contemporary intellectuals is the turning point for the development of Vietnamese languages. The writers used Nom characters for their preaching on woodblocks (convenient for disseminating Buddhist teachings to the people). Such preaching in Nom script were brief summaries in the form of poetry or interpretations of Buddhist thoughts through the prism of the Vietnamese people.

VỀ VĂN HỌC

ABOUT LITERATURE

Bản sách Thiền tông bản hạnh bao gồm nhiều tác phẩn văn học khác nhau: Yên Tu núi, Trúc Lâm Trần triều, Thiên tăng bản hạnh, tất cả được thể hiện dưới dạng thơ six-eight. Nó gồm gần 800 sentences (kể về sự tích Thiền phải Trúc Lâm và sự thịnh hành của các nhà sư triều Trần) của Thiền sư Chân Nguyên để miêu tả cảnh đẹp của các chùa chiền và quan trọng hơn là cảnh đẹp của tâm hồn người đã đắc đạo, điều này cho thấy kết quả của việc tu hành dựa theo bản lực của thiên phải Trúc Lâm. Đồng thời, hướng dẫn phương pháp dạy dỗ con cái, rèn luyện thế hệ trẻ theo chuẩn mực đạo đức của người Việt đương thời.

The book Thien Tong Ban Hanh is composed of many different literary works namely Yen Tu Mountain, Truc Lam Tran Trieu and Thien Tang Ban Hanh, all of which were written in six-eight poems. It includes nearly 800 sentences (telling the story of Truc Lam Zen sect and the popularity of monks in the Tran Dynasty) written by Zen Master Chan Nguyen to describe the beauty of the pagodas and, more importantly, the beautiful soul of the enlightened persons, which shows the result of practicing for the magic power of Truc Lam sect. At the same time, it also provides guidelines on how to nurture children and train the young generation in the light of the moral standards of the contemporary Vietnamese people.

VỀ Y HỌC

About Medicine

Đây là sự đúc kết, kế thừa kinh nghiệm dân gian, khảo nghiệm, tinh tuý về y dược phương Đông thời bấy giờ. Mộc bản là để truyền bá, phổ biến kinh nghiệm, vừa thể hiện lòng nhân ái của đạo Phật, qua đó nâng cao vị thế của các nhà sư (thiền phái Trúc Lâm) trong xã hội đương thời, đây được xem là một biện pháp hoàng dương Phật pháp (hỗ trợ dân, làm dân quý, khiến dân tin theo).

This is the summary and inheritance of folk experience, and the quintessence of the Oriental medicine at that time. The woodblocks were used to introduce experiences and demonstrate the compassion of Buddhism, thereby raising the status of monks (Truc Lam Zen sect) in the contemporary society. This was considered a measure to promote Buddhism (support the people, make the people respect, and make the people believe).

VỀ MỸ HỌC

Bộ mộc bản được khác công phu, cầu kỳ, tốn kém nhiều công sức. Người thợ khắc gỗ Việt Nam phải là người đa năng: giỏi chữ Hán/ chữ Nôm, có bàn tay khéo léo, con mắt tinh tường, bản tính kiên trì/ nhẫn nại/ thận trọng và trình độ thẩm mỹ rất cao mới tạo ra được các mộc bản này.

ABOUT AESTHETICS

The woodblocks are elaborately and meticulously carved. The carving is labor-intensive. The craftsmen must be multi-talented: good knowledge at Han/Nom characters, skillful hands, keen eyes, persistent/patient/careful character, and aesthetics at a very high level to create these woodblocks.

NGHỀ KHẮC IN

MỘC BẢN TRUYỀN THỐNG

CARVING AND PRINTING TRADITIONAL WOODBLOCKS

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư và một số thư tịch cổ còn lại có ghi rất rõ Lương Như Hộc, (1420- 1501) người xã Hồng Liễu, nay là thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, huyện Tứ Lộc (Hải Dương). Ông làm quan thời Hậu Lê, hai lần được cử làm sứ giả sang Trung Quốc và đã có công truyền lại nghề khắc bản gỗ in cho dân làng Liễu Tràng, Hồng Lục (nay là Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) và được tôn xưng là “ông tổ nghề khắc ván in”

According to the book namely Dai Viet Su Ky Toan Thu and some remaining ancient documents, it is clearly recorded that Mr. Luong Nhu Hoc (1420-1501), was from Hong Lieu commune (it is now Thanh Lieu village, Tan Hung commune), Tu Loc district, Hai Duong province. He was a government official in the Later Le dynasty and was twice dispatched as an envoy to China. He was the one who passed on the woodblock carving profession to the people of Lieu Trang village, Hong Luc (it is now Gia Loc, Hai Duong province) and was honored as the “ancestor of woodblock carving profession”

Tuy nhiên, việc tổ chức san khắc kinh sách và quá trình hình thành kho mộc bản ở Việt Nam đã có từ lâu đời. Tại chùa Vĩnh Nghiêm việc san khác mộc bản để ấn tống kinh sách nhà Phật diễn ra trong thời gian rất lâu dài. Theo văn bia tháp Viên Thông, chùa Thanh Mai (Chí Linh, Hải Dương), nơi yên nghỉ của Tổ đệ nhị Pháp Loa, việc in Đại Tạng kinh ở Đại Việt được thực hiện từ sớm: “ Năm Hưng Long 19 (1311), sư phụng chiếu khác lại kinh Đại Tạng…, Năm Đại Khánh thứ 5 (1318) tháng 12, sư kêu gọi tăng chúng và cả cư sỹ chích máu in 5.000 bộ kinh Đại Tạng. Vua Trần Anh Tông từng tự chích máu mình viết Đại Tạng cỡ nhỏ 20 cuốn, ban cho sư” Từ sau đại thắng quân Minh năm 1427, đất nước Đại Việt thanh bình, giáo hội Trúc Lâm Yên Tử, mà trung tâm là chùa Vĩnh Nghiêm lại sang Trung Hoa thỉnh kinh đem về nước và tiếp tục cho khác,in tại chùa. Tuy nhiên, thời gian lâu, cùng với thiên tai, dịch họa đã khiến nhiều chứng tích mộc bản thời đó không còn.

However, the carving of Buddhist scriptures and establishment of the woodblock store in Viet Nam has been organized for long time. At Vinh Nghiem Pagoda, the carving of woodblocks to print and distribute Buddhist scriptures was conducted early. The stele at Vien Thong stupa, Thanh Mai Pagoda (Chi Linh, Hai Duong), the resting place of the second Patriarch Phap Loa reveals that the Earth Store Sutra  in Dai Viet was carried out early, particularly: “In the 19th year of Hung Long (1311), the monk followed the imperial edict to engrarve again the Earth Store Sutra…. In the 5th year of Dai Khanh (December 1318), the monk called on monks and laymen to print 5,000 sets of the Earth Store Sutra in blood. King Tran Anh Tong used his own blood to write 20 small-sized Earth Store Sutra books to offer monks. After the great victory over the Ming army in 1427, Dai Viet became peaceful, the Truc Lam Yen Tu sect of which the heart was Vinh Nghiem Pagoda again sent representatives to China to request for scriptures which were later carved and printed at the pagoda. However, many of these woodblock relics have been lost with time, natural disasters and pandemics.

Dựa trên những tài liệu văn tự trên văn bia và các tài liệu thành văn có được, ta thấy trong quá trình hình thành kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm có công lao rất lớn của hai vị sư danh tiếng trụ trì tại chùa là nhà sư Tịnh Phương, pháp danh Tâm Viên và Thiền gia pháp chủ, Hòa Thượng Thích Thanh Hanh. Nhà sư Tịnh Phương, pháp hiệu Tâm Viên là người huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm 1819, viên tịch năm 1889, trụ trì tại Vĩnh Nghiêm từ năm Tự Đức thứ hai (1849), có công sửa sang tu bổ chùa, mở rộng đạo pháp, đào tạo tăng đồ, tổ chức san khác A Di Đà kinh, Tỳ khưu ni giới kinh, Sa di ni giới kinh,Quán thế âm kinh, Kính tín lục, Tây Phương mĩ nhân truyện. Thiền gia pháp chủ Thích Thanh Hanh sinh năm 1840, quy tịch năm 1936. Năm 60 tuổi, ông được giao trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Năm 1935, khi đã ngoài 90 tuổi, ông đứng ra thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và được vinh phong ngôi Thiền gia Pháp chủ (đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam).

The information carved on steles and written documents available proves that the formation of the Vinh Nghiem pagoda’s woodblock store was attributed to the great contributions of two masters at the pagoda, namely Tinh Phuong (dharma name Tam Vien) and Zen master-Venerable Thich Thanh Hanh. Monk Tinh Phuong was from La Son, Duc Tho district, Ha Tinh province; born in 1819, passed away in 1889; led Vinh Nghiem from the second year of King Tu Duc (1849); made great contribution to improving the pagoda, promoting the dharma, training monks, organizing the carving of Amitabha Sutra, Bhikkhuni Vinaya Sutra, Sa Di Ni Vinaya Sutra, Avalokiteśvara Bodhisattva Sutra, Kinh Tin Luc and Tay Phuong My Nhan Truyen. Zen master Thich Thanh Hanh was born in 1840, passed away in 1936. He was assigned to be the master of Vinh Nghiem pagoda when he was 60 years old. In 1935, when he was over 90 years old, he founded the Vietnam Buddhist Sangha and was honored as the Zen Master (head of the Vietnam Buddhist Sangha).

Từ năm 1932 – 1935, Hòa thượng Thanh Hanh tổ chức san khác mộc bản và ấn hành rộng rãi nhiều kinh sách, trong đó có sách Thiền tông bản hạnh (1932) và Đại thừa chỉ quán (1935).

Between 1932 and 1935, Venerable Thanh Hanh organized the woodblock carving and printing of many sutras, including the books namely Thien Tong Ban Hanh (1932) and Dai Thua Chi Quan (1935).

Việc san khắc mộc bản rồi ấn hành ở chùa Vĩnh Nghiêm là một bước ngoặt quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình chấn hưng Thiền phái Trúc Lâm cũng như đời sống Phật giáo Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

The woodblock carving, printing and publishing at Vinh Nghiem Pagoda were an important turning point that contributed to promoting the revival of Truc Lam Zen sect as well as Vietnamese Buddhist life in the late 19th and early 20th centuries.

QUY TRÌNH KHẮC IN MỘC BẢN

WOODBLOCK CARVING AND PRINTING PROCESS

BƯỚC 1

Tuyển chọn văn bản: Là khâu đầu tiên cũng là khâu quan trọng nhất, quyết định bản in ra theo dạng thức nào.

STEP 1

Select text: This is the foremost important step to determe the form of the printed version.

BƯỚC 2: CHUẨN BỊ VÁN

STEP 2: PREPARE BOARDS

– Lựa chọn vật liệu làm ván phải là có sức bền, hút mực tốt và nhả mực tốt (độ hút mực và độ nhả mực cân bằng nhau). Thông thường, những loại gỗ được lựa chọn gồm: lê, táo, tử, thị, lồng mực. Đôi khi, người xưa còn sử dụng gỗ hoàng dương, ngân hạnh, bạch dương…

– Xẻ gỗ theo hướng dọc của cây thành các phiến dầy từ 2-3cm

– Ngâm ván xẻ vào nước khoảng 6 tháng, đặt chồng các vật nặng lên trên để ván chìm hẳn xuống. Thay nước liên tục để nhựa trong gỗ tan hết, có vậy sau khi khô ván không bị nứt, tiện lợi cho việc khác, dễ hút mực và nhả mực

– Hong khô ván ở nơi thoáng gió, tránh ánh nắng trực tiếp

– Mài bằng hai mặt, cắt thành hình gần nhất với ván khắc in, sau đó dùng dầu thực vật bôi lên trên bề mặt.

– Select the material used to make the boards. The materials must be durable, absorb and release ink well (ink absorption and ink release capacity must be  balanced). The types of wood often chosen include pear wood, apple wood, rosewood, fig tree wood, …. In addition, boxwood, ginkgo wood and birch wood… were sometimes used.

– Cut the wood along the length of the tree into 2-3cm thick sheets

– Soak the sheets in water for about 6 months, with heavy objects placed on top so that the sheets sink completely. Change water frequently to facilitate the complete resin dissolution in the wood so that dry wood later is not cracked (convenient for carving), easy to absorb and release ink

– Dry the sheets in a ventilated place, avoiding direct sunlight

– Polish both sides of the sheets, cut into shapes similar to the carving boards, then apply vegetable oil to the surface.

CHUẨN BỊ GIẤY:

Giấy in thường là giấy dó, nhưng đôi khi cũng sử dụng giấy được sản xuất từ Trung Quốc.

PREPARE PAPER:

Printing paper was usually dó (mulberry) paper, but paper produced in China was also sometimes used.

CHUẨN BỊ MỰC:

– Mực in được mài ra thêm keo và rượu dể thành dạng cao, sau đó bỏ trong ang để 3-4 năm. Để càng lâu thì chất mực càng tốt. Khi dùng thêm nước để làm hỗn hợp và dùng lưới để lọc. Cũng có thể trộn với hồ và nước cơm để tạo chất kết dính.

PREPARE INK:

– Grind ink with glue and alcohol to form a paste, then put the ink in a jar for 3-4 years. The longer the ink was kept, the better the quality of the ink. Mix the ink with water and filter carefully with a net before use. It might be also mixed with glue and boiled rice water to create adhesive.

BƯỚC 3

– Viết nội dung đã được lựa chọn lên giấy

– Hiệu chỉnh lại chính xác nội dung đã viết

STEP 3

– Write the selected content on paper

– Edit the written content for accuracy

LÊN BẢN:

Chữ mẫu được viết rồi đặt ngược lên ván. Mặt ván phải được phết hồ thật kỹ (làng Liễu Tràng dùng hồ bằng cơm). Giấy được dán lên theo từng hàng. Chờ giấy khô dần thì sử dụng bằng dầu thực vật bôi lên để phần chữ viết (màu đen) được nổi rõ

TRANSFER LETTERS FROM PAPERS TO BOARDS:

Write the sample letters on papers, and place the papers upside down on a board. The board surface must be thoroughly coated with glue (Lieu Trang village used rice glue). Place unwritten papers on the boards. After the papers get dry, use vegetable oil to paste on the letters (black) so that the letters appear clearly on the papers.

KHẮC VÁN:

Dùng các công cụ như dao, nạc, tạc, dùi để bỏ đi phần trắng, giữ lại phần viết trên ván. Khác các nét thuận theo tay người thợ. Chữ phải khắc từng hàng một, sau khi khắc xong dùng nước để rửa sạch mùn còn lưu lại trên mặt ván.

CARVE BOARDS:

The craftsman uses tools such as knives, chisels or awls to remove the white part, leaving the writing on the boards. Carve the strokes to the side of the craftsman’s prefered hand. The letters must be carved line by line. After carving, use water to wash away any remaining sawdust on the board surface.

BƯỚC 4

IN VÁN:

Ngâm ván vào nước để ván ngấm nước. Mực được bôi đều trên mặt ván bằng chổi thông, sau đó úp giấy lên trên, dùng chổi xoa đều.

STEP 4

PRINT BOARDS:

Soak the wooden boards in water to let it absorb water. Paste ink evenly on the surface of the soaked boards with a brush, then place papers on the surface, and use a brush to apply ink evenly on the papers.

ĐÓNG SÁCH:

Đem toàn bộ những tờ đã in ra gấp trang đôi, xếp theo thứ tự trang, vỗ cho dều và để cùng cữ, còn gọi là toát chỉ, ép bìa đã phết cậy rồi nẹp lại. Xén chuẩn theo cữ sách, lấy những dải giấy xén thừa xoắn lại thành chỉ, đóng sách. Tháo nẹp, ép sách và gắn sơn ta vào gáy sách cùng phần chỉ cho chết dây. Phết sơn lên 3 biên sách còn lại, để sống trang sách không rách mỗi khi lật, bấu. Viết tên sách, thứ tự số quyền để hoàn thiện sách

BIND BOOKS:

Fold printed sheets in half, arrange them in order of page number, pat the papers evenly and neatly; place the book cover on the top and then fasten the book with a clip. Trim book, depending on the book size. Use the trimmed paper strips to twist into thread, and use this thread to bind the book. Remove the clip, press the book and apply lacquer to the spine and the thread to fix the string. Apply lacquer to the remaining 3 edges of the book so that the edges of the book are not torn when readers turn or grip the pages of the book. Write the book title and volume number to have a complete book.

Yên Dũng, là miền đất cổ đã có tên trên bản đồ từ thời kỳ đầu của kỷ nguyên Đại Việt độc lập. Thư tịch, văn khắc cổ nước nhà cho biết, dưới thời Lý – Trần (thế kỷ 11-14), phần đất huyện Yên Dũng ngày nay thuộc về châu Lạng, Lạng Nguyên (thời Lý), lộ Bắc Giang (thời Trần). Sang thế kỷ 15, triều đình nhà Lê sơ đã sáp nhập hai huyện bên hữu ngạn sông Thương thuộc phủ Lạng Giang là Cổ Dũng và Yên Ninh thành huyện Yên Dũng. Tên gọi Yên Dũng xuất hiện đến nay đã được gần 6 thế kỉ. Đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) một số xã thuộc tổng Trí Yên, Xuân Đám, Dĩnh Kế bên tả ngạn sông Thương thuộc huyện Phượng Sơn/Phượng Nhãn xưa được sáp nhập vào huyện Yên Dũng. Từ đây, Yên Dũng trở thành miền đất “Ba Sông”, nơi sơn xuyên giao hòa, tích hợp chung đúc linh khí đất trời của miền Đông thổ nước Việt. Sông Thương, sông Lục, sông Cầu được người đời ngợi ca là ba sông đẹp nhất đất Việt.

Yen Dung is an ancient land that has been on the map since the early period of independent Dai Viet. According to ancient documents and inscriptions of the country, under the Ly – Tran dynasties (11th – 14th century), the land of current Yen Dung district belonged to Chau Lang, Lang Nguyen in Ly dynasty; and Bac Giang in Tran dynasty. In the 15th century, the Early Le dynasty merged two districts, namely Co Dung and Yen Ninh in Lang Giang prefecture, on the right bank of Thuong river, into Yen Dung district. The name Yen Dung has been used since then, for nearly 6 centuries. During the war against the French (1945 – 1954), some communes of Tri Yen, Xuan Dam, Dinh Ke on the left bank of Thuong river, belonging to former Phuong Son/Phuong Nhan district, were also merged with Yen Dung district. Since then, Yen Dung has become the land of “T-junction of three rivers” where mountains and rivers meet, integrating the magic energy of the land and sky in the Eastern land of Viet Nam. Thuong River, Luc River, and Cau River have been praised as the three most beautiful rivers in Viet Nam.

Ba dòng sông thiêng cùng dải Phượng Hoàng đã trở thành hai biểu tượng rất thân thương với miền quê Yên Dũng. Ba dòng sông giao hòa như vệt chân chim ấn tạc trên miền thượng xứ Bắc đã tạo nên miền đất phì nhiêu, màu mỡ thích hợp cho việc cấy trồng và đánh bắt thủy sản. Chính vì thế, nơi đây từ khi xuất hiện văn minh đồ đồng, đồ sắt đã có dấu tích cư trú của người Việt cổ. Trải bốn nghìn năm tồn sinh cùng lịch sử dân tộc, con người nơi đây đã sáng tạo và để lại kho tàng di sản văn hóa hữu hình và vô hình rất phong phú, đặc sắc ẩn chứa những biểu trưng giàu giá trị nhân văn của miền quê văn hiến.

The three holy rivers and the Phoenix mountain range have become two familiar symbols of Yen Dung. The three rivers are harmonized like the footprint of a bird carved on the upper part the North region, creating fertile land suitable for farming and fishing. Therefore, traces of ancient Vietnamese people during the Bronze and Iron civilizations have been found here. Over four thousand years of the national history, the local people have created and left behind a unique tangible and intangible cultural heritage which contains symbols rich in humanistic values ​​of the civilized countryside.

Huyện Yên Dũng giáp với các huyện Việt Yên, Lạng Giang, Lục Nam và thành phố Bắc Giang. Giáp với huyện Quế Võ của tỉnh Bắc Ninh và huyện Chí Linh của tỉnh Hải Dương

Yen Dung district is bordered to Viet Yen, Lang Giang, Luc Nam districts and Bac Giang city. It is also bordered to Que Vo district of Bac Ninh province and Chi Linh district of Hai Duong province.

Ảnh trên: Bản đồ huyện Yên Dũng và huyện Việt Yên (cuối tk XIX)

Photo above: Yen Dung and Viet Yen district map (in late 19th century)

Ảnh dưới: Huyện Yên Dũng trong thành phần tỉnh Bắc Ninh cũ (cuối tk XIX)

Photo below: Yen Dung district map in former Bac Ninh province (in late 19th century)

GIẤY DÓ – VỚI NGHỀ IN TRUYỀN THỐNG

DÓ PAPER – WITH TRADITIONAL PRINTING

Xưa ở miền Bắc Việt Nam có hai làng nghề làm giấy dó nổi tiếng là làng Bưởi (xã Nghĩa Đô, Hà Nội) và làng Đống Cao (Bắc Ninh). Nguyên liệu chính được làm từ  vỏ cây dó đồng, có nhiều ở gò bãi ven sông, hay các triển núi savan ở các tỉnh miền Bắc và Đông bắc Bắc Bộ.

Xưa người dân làng giấy phải dùng thuyền ngược sông đến vùng cao mua nguyên liệu vỏ dó. Vỏ dó mang về đem ngâm vào nước lã, nước vôi loãng cho mềm, cho trắng… rồi cạo kỹ hết lớp áo đen bên ngoài chỉ để lại phần sợi dó trắng ngà. Sợi dó đồng là nguyên liệu tốt nhất để sản xuất ra giấy dó tốt.

The North region of Viet Nam in the past had two famous dó paper production villages, namely Bưởi village (in Nghia Do commune, Hanoi) and Đống Cao village (Bac Ninh). The main raw material was from the bark of the dó trees that grew wildly on riverbanks or mountain slopes in the Northern and Northeastern provinces.

Papermakers had to take boats upstream to the highlands to buy dó bark. The dó bark was brought back and soaked in water and diluted lime water to get soft and white… Then the black outer layer was removed, leaving only the ivory-white fibers. The fiber from wild dó trees was the best raw material for producing good dó paper.

Ngày xưa, người ta giã sợi đó bằng cối giã đạp chân hay chày tay đến khi nào sợi đó biến thành bột nhuyễn thì nhào trộn với keo loãng rồi đem seo, cán, láng thành tờ giấy dó trắng mịn mượt.

In the past, papermakers crushed dó fiber with a foot-pedal or hand-held mortar until the fiber turned into a fine powder; then they mixed the such powder with diluted glue and rolled to make smooth white dó paper.

Vài chục năm trở lại đây, người thợ làng giấy có khi dùng máy xay thay cho công đoạn giã làm cho sợi đó bị dứt vụn độ liên kết kém cho nên không có độ dai bền như xưa. Đó là cách làm tờ giấy lệnh hội, giấy bản thông dụng trong dân gian. Còn làm giấy sắc lại có thêm những quy trình bí quyết riêng như: Bôi keo cho giấy thêm độ dai bền và chống ẩm, mối mọt; nhuộm giấy bằng bột hoa hoè giã nhỏ để lấy màu vàng biểu hiện của vương quyền; nghiền giấy cho mỏng, dai thêm, bóng nhẵn hơn; dùng màu, nhũ vàng – bạc vẽ hoa văn trang trí phôi sắc.

In recent decades, papermakers used a motorized grinder instead of the mannual crushing. However, the grinding machine made dó fiber broken and less adhesive, are easily broken, resulting in less durable papers. That is the common way to make ordinary folk paper. For the royal court paper, additional secret processes are required, e.g., applying glue to make paper more durable and resistant to moisture and termite; dyeing thepaper with crushed sophora japonica powder to get the yellow color representing royalty; pressing paper to make it thinner, tougher, smoother and more polished; using colors, gold and silver glitter to draw decorative patterns.

Ở tỉnh Bắc Giang nghề làm giấy dó còn được duy trì bảo tồn ở bản Khe Nghè (Lục Sơn, Lục Nam) nhưng làm theo phương pháp thủ công thô sơ của đồng bảo dân tôn Cao Lan

Dó paper production is still maintained and preserved in Khe Nghe village, Luc Son commune, Luc Nam district, Bac Giang. Dó paper is made with the simple manual method of the Can Lao ethnic minority group.

QUY TRÌNH LÀM GIẤY DO TRUYỀN THỐNG

Vỏ cây được bào từng sợi

Vỏ cây được bào từng sợi

Vỏ cây dó sau khi bào sợi được ngâm nước vôi trong 3 tháng

Tiếp đến giã nhuyễn (đem xay nhuyễn bằng máy) vỏ cây dó

Sau đó, vỏ dó được hấp cách thủy khoảng 3 ngày 2 đêm cho đến khi vỏ cây được nấu chín nhừ (nhận biết bằng cách ngửi thấy mùi thơm đặc trưng hoặc phần thịt của vỏ cây dó trong suốt lại).

TRADITIONAL PROCESS TO PRODUCE DÓ PAPER

Cut bark into fiber

Soak fiber in lime water for 3 months

Crush fiber (using mortar or machine) thoroughly

Steam for about 3 days and 2 nights until the bark is well cooked (decision made by the typical aroma or the transparent color of the remaing flesh of the bark).

Người thợ sản xuất giấy dó dùng ‘liềm seo. Thợ seo chao đi chao lại trong bể bột dó, lớp bột đó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, bóc, can, phơi (sấy), lột giấy.

Tiếp đến dùng dao nhỏ bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày cho đến khi thành một dạng bột nhuyễn rồi cho bột đó vào một cái rá to có đường kính một mét được đan bằng tre để đãi sạch nước vôi, gọi là “đãi bia”, ngày nay công nghệ hiện đại có thể xay bằng máy. Dùng chất nhầy từ cây mò (chi Clerodendrum) tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là “nhớt gỗ” mà người thợ sẽ pha với nước độ lỏng hay đặc tùy theo loại giấy.

Use a “fixing plate” to shake shakes back and forth in the dó powder tank, the powder layer on plate is a dó paper sheet which will be taken off, pressed and dried.

After that, use a small knife to remove the black parts, use a mortar and pestle to crush until it becomes fine powder, then put the powder in a large bamboo one-meter diameter basket with holes to remove all the lime water, also called “beer filtering”, the crushing can be done machine today. Use the mucus from glorytree (Clerodendrum) to create a sticky mixture. This mixture is called “wood slime” which  will be used it to mix with water to get the liquid or thick solution, depending on the type of paper.

Công đoạn ép giấy đó cũng thủ công, tỉ mỉ.

Khi seo giấy, người thợ dùng “liềm seo” – liềm là một mành nửa hoặc giang chẻ nhỏ như sợi tăm rồi dùng sợi tơ xe lại mua ở làng Triều Khúc về đan lại – công đoạn đan liềm này do các thợ thủ công ở làng Cáo Đinh đảm nhận. Thợ seo chao đi chao lại trong bể bột dó, lớp bột đó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, bóc, can, phơi (sấy), lột giấy. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xố, nên giấy rất nhẹ. Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ axít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm.

Manual and meticulous process to press dó paper

When fixing paper, the craftsman uses a “fixing plate” – a plate made of small bamboo sticks like toothpicks which are weaved with thread bought from Trieu Khuc village – the plate weaving is done by craftsmen in Cao Dinh village. The craftsman shakes the fixing plate horizontally in the dó powder tank. The powder layer left on the plate will be a dó paper after pressing, peeling, shaping and drying processes. The dó fibers are linked together, like a multi-layered spider web, to form dó paper which is spongy and very light. The tools for producing the paper are mostly made of bamboo and wood and dried with natural light. Dó paper produced by this process is acid-free, leading to paper longevity. Some documents say that dó paper can last up to 500 years.

Bình luận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Tin cùng chuyên mục

Tin mới